Kim Bình Mai
EPUB
Tác giả: Tiếu Tiếu Sinh
Thể loại: Tiểu Thuyết
Đọc online
Giới thiệu
Bạn
đọc đang tiếp xúc với bộ tiểu thuyết trường thiên, một pho “kì thư” rất
đặc sắc của nền văn học cổ điển Trung Hoa. Đó thực sự là lịch sử cuộc đời đầy tội
ác và sinh hoạt gia đình nhơ bẩn của Tây Môn Khánh, một kẻ hãnh tiến xuất thân
từ một chủ hiệu sinh dược, nhưng do những mánh khóe bóc lột và hành vi ác bá,
kéo bè kéo cánh, thông lưng với quan lại một bước nhảy tót lên đia vị một thổ
hào thân sĩ giàu tiền của, đầy quyền thế. Từ cái bàn đạp đó, ngoi lên vin vào
quan hệ nghĩa phụ nghĩa tử với Thái Kinh, một viên đại thần hiển hách ở triều
đình lúc bấy giờ, Tây Môn Khánh đã trở thành Đề hình Thiên hộ Ở bản huyện, tham
lam tàn ác, bẻ cong phép nước, ăn tiền hối lộ, hại người lương thiện, và sống
cuộc đời dâm ô cực kỳ bỉ ổi.
quả đã phơi bày bộ mặt thật của xã hội
đương thời qua những trang sách tràn đầy hơi thở hiện thực. Qua mối quan hệ chằng
chịt của nhân vật chính Tây Môn Khánh với mọi lớp người trong xã hội, tác giả
đã khắc họa chân dung sinh động cùng trạng thái tinh thần muôn vẻ của hàng loạt
nhân vật, từ những viên hoạn quan làm mưa làm gió trong cung đình ngay bên nách
hoàng đế, đến những tên lưu manh du thủ du thực, những tay dao búa chuyên nghiệp,
những tên côn đồ bip bợm lừa đảo đầy rẫy ngoài phố chợ. Qua những hành vi đê tiện
và những mánh khóe tội lỗi của chúng, tác giả đã vẽ lên khá tỉ mỉ mà khái quát
một bức tranh xã hội đen tối tàn khốc, trên thực tế đó cũng chính là xã hội mà
tác giả đang sống, xã hội phong kiến Trung Quốc thời Minh từ sau Chính Đức đến
giữa Vạn Lịch Nhân vật chính Tây Môn Khánh trước hết là một con quỷ dâm dục hiện
hình, một mình y đã có một thê và năm thiếp nhưng còn sẵn sàng cưỡng dâm từ con
gái nhà lành đến đàn bà góa bụa, giết chồng đoạt vợ, kể cả vợ bạn, em dâu y
cũng không tha. Dâm dục đi đôi với tàn bạo là nét bản chất xuyên suốt cuộc đời
y cho đến kết thúc bằng cái chết vì bệnh dâm dục.
Bên cạnh Tây Môn Khánh là Phan Kim Liên
được xây dựng như một nhân vật điển hình của hạng phụ nữ tà dâm, xảo quyệt.
Thông dâm với Tây Môn Khánh, thị đã nhẫn tâm và quỷ quyệt đầu độc chồng là Võ Đại,
rồi khi chồng đã ngấm thuốc chết hẳn “hai hàm răng nghiến chặt vào nhau, cắn
cả vào môi chảy máu, tai mũi và cả mắt đều ứa máu ròng ròng” thì thị cùng
Vương bà “kéo xác Võ Đại ra sau nhà, lau sạch vết máu đội mũ đi giày cho tử
tế, lấy khăn phủ lên mặt cho Võ Đại rồi cả hai cùng ngồi khóc”. Thị lập
bàn thờ chồng với bài vị “Vong phu Võ Đại lang chi linh”, nhưng sẵn
sàng hú hí với Tây Môn Khánh ngay trước bàn thờ ấy.
Xoay quanh các nhân vật chính đó, thôi
thì đủ hạng vô lại cặn bã của xã hội:
Ứng Bá Tước và Tạ Hi Đại bợ đỡ nịnh hót,
Trương Thắng và Lưu Nhị du thủ du thực, thằng quýt con sen Lai Vượng, Thu Cúc,
con hát Lưu Quế thư, kép hề Vương Kinh, cho đến thái giám, môn quan, tăng lữ,
ni cô, đạo sĩ, bà mối… tất ca?
đám người kí sinh trong xã hội đô thị.
Trên phương diện xây dựng hình tượng
nhân vật cụ thể, tác phẩm đã sáng tạo khá thành công một loạt tính cách điển
hình có xương có thịt.
Trên tiến trình văn học của dân tộc
Trung Hoa, có một vị trí quan trọng.
Thời Minh, nhất là từ Gia Tĩnh
(1522-l566), xã hội tương đối ổn định, kinh tế có chiều phát triển, xu thế đô
thị hóa tăng dần, đã tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển của thể loại văn
học mới:
trường thiên tiểu thuyết. Song hành với
điều kiện xã hội đó là sự tiến bộ của kỹ thuật in khắc. Đến thời Vạn Lịch
(1573- 1620) đã xuất hiện một cục diện phồn vinh của thể loại này với hàng loạt
tác phẩm ngày nay còn được biết.
Tiểu thuyết Trung Quốc thời này có thể
chia làm bốn loại:
Thứ nhất, chiếm số lượng áp đảo là tiểu
thuyết lịch sử diễn nghĩa, đại thể phỏng theo Tam quốc chí diễn nghĩa, kể chuyện
lịch sử bằng ngôn ngữ thông thường dễ hiểu. Có thể nói, suốt từ Xuân Thu Chiến
Quốc đến Minh sơ, tiểu thuyết lịch sử diễn nghĩa thời này đã phủ kín cả chiều
dài lịch sử Trung Quốc.
Trong đó tiêu biểu nhất là Bắc Tống chí
– truyện của Hùng Đại Mộc. Nhìn chung loại tiểu thuyết lịch sử diễn nghĩa này
miêu tả tính cách nhân vật còn tương đối ít, kết cấu không chặt, tình tiết nhiều
lúc thiếu gắn bó, còn câu nệ quá nhiều vào sự thật lịch sử, nghệ thuật còn sơ
lược, thường còn nằm trên ranh giới giữa lịch sư?
với văn học.
Thứ hai, là tiểu thuyết phong thần, tiêu
biểu nhất là Phong thần diễn nghĩa. Loại này phần nhiều kê?
lại những chuyện li kỳ hoang đường, thiếu
ý nghĩa xã hội sâu sắc.
Thứ ba là tiểu thuyết “công
án”, nổi tiếng nhất là Hải Cương Phong tiên sinh cư quan công án truyện của
Lí Xuân Phương, 71 hồi, mỗi hồi kể một chuyện với nhân vật xuyên suốt là người
thẩm án Hải Thụy. Về thể tài có thể xem là tổng tập tiểu thuyết bút kí, tựa như
tập truyện vụ án.
Thứ tư là tiểu thuyết “thế
tình” (tình đời). Loai này lúc đó còn hiếm, ngày nay được biết chỉ có Kim
Bình Mai và Ngọc Kiều Lí, nhưng Ngọc Kiều Lí thì đã thất truyền. (Thẩm Đức Phù
trong Dã hoạch biên nói ông từng xem Ngọc Kiều Lí). Loại này ngày nay thường được
gọi là tiểu thuyết xã hội.
Trước Hồng lâu mộng hơn một trăm năm, được
coi là tác phẩm mở đường cho tiểu thuyết xã hội Trung Quốc. Từ năm 1940, đề tựa
cho Bình ngoại chi ngôn của Diêu Linh Tê, Giang Đông Tễ Nguyệt gọi là “tiểu
thuyết của tiểu thuyết”, còn Ngụy Bệnh Hiệp thì so sánh với tác phẩm của
Đickens ở Anh, Sêkhov ở Nga, đồng thời cho rằng Thủy hử kể nhiều võ hiệp, Hồng
lâu chuyên nói tình yêu, Nho lâm ngoại sử miêu tả tình thái xã hội – nhưng hạn
chế trong đám hủ nho, ý nghĩa xã hội đều không rộng lớn bằng.
Trong bài Bàn về Hồng lâu mộng, Hà Kì
Phương có nhắc đến mối quan hệ giữa Hồng lâu mộng với:
Hồng lâu mộng quả là cái bóng soi ngược
hình của. Dĩ nhiên Hồng lâu mộng sinh sau nhưng vượt trội nhiều mặt, đặc biệt
là ngôn ngữ văn học đạt tới đỉnh cao của tiểu thuyết cổ điển, rõ ràng không
sánh được.
Ngay cả sau khi bị liệt vào hạng
“sách cấm” thì giới văn học vẫn xếp nó vào một trong “tứ đại kì
thư” (bốn cuốn sách lớn kì thú) của tiểu thuyết trường thiên Minh Thanh:
Tam quốc diễn nghĩa, Thủy hử truyện, Tây
du ký và. Tất cả các giáo trình văn học sử ở các trường Đại học Trung Quốc đều
giảng và đều công nhận đó là con chim én báo mùa xuân của thể loại truyện dài
do cá nhân sáng tác ở Trung Quốc.
Lỗ Tấn nói trong Trung Quốc tiểu thuyết
sử lược:
“Tiểu thuyết () lấy chuyện Võ Tòng
đánh cọp tìm anh trong Thủy hử truyện làm ngòi dẫn, mượn danh thời Tống để tả
thực thời Minh, phản ánh hiện thực xã hội thời Minh”.
đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Bản dịch
sớm nhất là bản Mãn văn khắc in năm Khang Hi 47 (1708), không ghi tên dịch giả,
dịch theo bản “Trương Phúc Pha đệ nhất kì thư”.
Ở phương Tây, sớm nhất là bản dịch hồi
thứ nhất của, thực hiện bởi A.P. Bazin:
Histoire de Wou Song et de KimLien trong
Chine moderne (Trung Quốc hiện đại) xuất bản năm 1853. (tiếng Pháp).
Năm 1927 có bản tiếng Anh Chin Ping Mei,
the adventurous of His Menching ở New York.
Năm 1928 có bản tiếng Đức Djin Ping Me của
Oto Kibat. Tiếng Hungari, tiếng Thụy Điển, tiếng Phần Lan đều đã có bản dịch.
Ở Nhật Bản đã có nhiều bản dịch khác
nhau. Bản dịch đầy đủ 100 hồi sớm nhất là của Cương Nam Nhân Kiều in thành 4 tập,
hoàn thành đầu thế kỉ này. Năm 1951, có bản dịch của Tiểu Dã Nhẫn và Thiên Điền
Cửu Nhất theo nguyên bản từ thoại.
Ở Việt Nam lâu nay lưu hành khá rộng rãi
bản in của Nhà xuất bản Khoa học xã hội năm 1989 loại trọn bộ 4 tập, in 20.000
bản và loại trọn bộ 8 tập, cũng in 20.000 bản, nội dung hoàn toàn như nhau kể cả
lời giới thiệu và ghi chú ở đầu sách:
“In theo bản của nhà xuất bản Chiêu
Dương – 1969, có đối chiếu bản gốc và tham khảo các bản khác”, song không
cho biết tên dịch giả và bản gốc cũng như các bản tham khảo khác là bản nào.
Căn cứ vào nội dung truyện và tiêu đề ngắn
gọn của từng hồi trong bản dịch, chúng tôi đoán rằng dịch giả đã dùng một
nguyên bản thuộc hệ văn bản thứ ba mà chúng tôi sẽ phân tích ở dưới trong phần
khảo về văn bản, mà theo nhận định chung của giới nghiên cứu ở Trung Quốc thì hệ
văn bản thứ hai mang tên từ thoại mới là văn bản tiêu biểu.
Thử so sánh tiêu đề hồi đầu và hồi cuối
của hai loại văn bản đó ( tạm dịch ) Hệ văn bản 3 Hệ văn ban 2 Hồi 1 Bạn bè kết
nghĩa vui thú ăn chơi Đồi Cảnh Dương, Võ Tòng đánh hổ, Phan Kim Liên chê chồng,
bán trăng hoa.
Hồi 100 Dòng Tây Môn tuyệt tự Hàn Ái Thư
đến hồ tìm bố mẹ, Phô?
Tĩnh sư tiến bạt quần oan.
Có thể thấy hai loại văn bản này khác
nhau khá xa.
Dưới đây, đặc biệt giới thiệu hai vấn đề
mà giới nghiên cứu ở Trung Quốc cũng như trên thế giới hết sức quan tâm, hai vấn
đề đã gây tranh cãi hàng trăm năm, cùng với những kết quả nghiên cứu mới nhất
trong hai thập kỉ qua (sau “cái cách mở cửa”).
Một là vấn đề “văn bản “.
Bộ tiểu thuyết này đã từng mang nhiều
tên gọi khác nhau, số tên gọi không kém gì Thủy hử hay Hồng lâu mộng. Mà sự
khác nhau trong tên gọi thường kèm theo sự xê dịch về nội dung. Theo trình tự
thời gian có thể sơ lược giới thiệu như sau:
Ở thời kỳ chép tay, thì tên gọi rất đơn
giản, chỉ gọi là, được ghép từ tên ba nhân vật quan trọng:
Phan Kim Liên, Lý Bình Nhi, Bàng Xuân
Mai – mỗi tên lấy một chữ đại diện. Sau khi đưa khắc in, có người gọi là truyện
thì tên sách đề là Tân khắc từ thoại. Đó là tên gọi ơ?
thời kỳ đầu mới khắc in. Về sau, những
người xuất bản thường chụp lên đầu tên sách một số mũ nào đó, thế là thành các
tên như Túc bản từ thoại (bản đầy đủ), Hội đồ cổ bản từ thoại (bản cổ có tranh
vẽ) v.v…
Cuối đời Minh, do chỗ từ thoại có tăng
thêm, tỉa bớt hoặc sửa chữa khá nhiều, hoặc có vẽ tranh, bình luận, hình thành
một hệ văn bản mới nên tên sách cũng thay đổi theo, gọi là Tân khắc tú tượng
phê bình (bản khác mới có tranh thêu và lời bình) hoặc Tân thuyên tú tượng phê
bình nguyên bản (thêm chữ “nguyên bản”). Người ta quen gọi loại này
là “bản Sùng Trinh”(#1). Tú khắc cổ bản bát tài tử từ thoại cũng thuộc
loại này.
Dưới thời Khang Hi nhà Thanh, Trương
Trúc Pha, tức Trương Đạo Thâm, người Bành Thành, rất tán thưởng sách này, mệnh
danh nó là Thiên hạ “đệ nhất kì thư”. Lấy Tân khắc tú tượng phê bình
Kim Bình Mai làm bản nền, họ Trương đã tiến hành phê bình một cách toàn diện và
có hệ thống, đến mức thành một hệ văn bản mới, lưu truyền khá rộng rãi, ảnh hưởng
tương đối sâu sắc, đầu quyển thường ghi là Cao Hạc đường phê bình Đệ nhất kì
thư và ở trang bìa giả, thôi thì đủ:
nào là Đệ nhất kì thư, nào là Đệ nhất kì
thư, Đệ nhất kì thư tú tượng. Tú tượng đệ nhất kì thư. Tứ đại kì thư đệ tứ chủng,
Tăng đồ tượng túc bản, Tăng đồ tượng Cao Hạc thảo đường kì thư toàn tập, nào là
Hội đồ đệ nhất kì thư, Hiệu chính gia phê Đa thê giám toàn tập, Tân thuyên hội
đồ Đệ nhất kì thư Chung tình truyện v.v… Thời Gia Khánh (Thanh), trên cơ sở bản
nền có lời bình của họ Trương, đã ra đời một bản rút gọn gọi là Tân khắc kì
thư.
Thời Dân Quốc, có người gia giảm cắt gọt
” có lời bình của họ Trương”, xào xáo lại, bôi râu vẽ mặt thêm, cho
ra đời cái gọi là ” chân chính’, đặt tên là Hội đồ chân bản Kim Bình Mai.
Từ đó về sau lại có thêm những là Cổ bản, Tiêu điểm cô bản cổ bản, Cảnh thế kì
thư v.v và v.v… Chúng là hàng rởm vỗ ngực tự xưng là “chân” (thật)
“cô” (hiếm), cô?
(xưa), nhưng là thứ hàng rởm đã thành
công trong công cuộc mập mờ đánh lận con đen, và đã từng lưu hành rộng rãi một
thời.
Cho đến nay tính ra lưu truyền có đến mấy
chục bản khác nhau, có thể quy nạp thành ba hệ văn bản:
1- Hệ văn bản “từ thoại”:
Hệ này, Tôn Khải Đệ gọi là từ thoại, học
giả Nhật Bản gọi là “bản từ thoại”, học giả Mỹ gọi là “hệ bản
A”.
Bản sớm nhất của hệ này là bản khắc năm
Vạn Lịch 45, cũng là bản sớm nhất trong các truyền bản đã biết. Hệ này nay còn
lại tương đối hoàn chỉnh chỉ có ba bộ:
một hiện ở Đài Loan (trước lưu giữ ở Thư
viện Bắc Kinh), hai bộ Ở Nhật Bản.
Đặc điểm tương đối nổi bật của hệ văn bản
này là ở hai chữ “từ thoại”. Từ thoại vốn là một hình thức nghệ thuật
“thuyết xướng” (kết hợp hát với nói lời bạch, xen kẽ văn xuôi với văn
vần), hình thức này có từ thời Tống, thịnh hành thời Nguyên – Minh. từ thoại
tuy mang tên như vậy song không thê?
coi là “từ thoại” chính cống nữa
mà nó rõ ràng là một pho trường thiên tiểu thuyết mang màu sắc “từ thoại”
mà thôi.
2- Hệ văn bản “tú tượng phê cải”
(có tranh thêu và có sửa chữa). Hệ văn bản này gồm hai loại nhỏ:
loại “bản Sùng Trinh” và loại
“bản Trương Bình”.
Hệ văn bản này có hai đặc điểm mà các hệ
văn bản khác không có:
1 / lời phê lời bình ; 2 / tranh thêu.
So với hệ văn bản “từ thoại”
nói trên, hệ này chặt chẽ, trong sáng, hợp lí thông đạt hơn, văn bản “từ
thoại” vì đưa vào quá nhiều thơ ca từ phú không liên quan gì mấy với phát
triển của tình tiết nên làm yếu chất tiểu thuyết.
a. Loại văn bản Sùng Trinh:
bản khắc sớm nhất được coi là khắc dưới
thời Sùng Trinh nhà Minh.
Hiện còn tám bộ lưu giữ ở tám nơi khác
nhau:
– Thư viện Thủ đô (Bắc Kinh) – Thư viện
Thượng Hải – Thư viện Đại học Bắc Kinh Trung Quốc – Thư viện Thiên Tân – Thư viện
Trung ương Đài Loan – Nội các văn khố – Trường Đại học Tôkiô Nhật Bản – Trường
Đại học Thiên Lý b. Loại văn bản Trương Bình (khởi đầu từ Trương Trúc Pha như
đã nói ở trên).
3- Hệ văn bản rút gọn:
Các văn bản này, nhất là những văn bản
mang danh “chân bản”, “cổ bản” phần nhiều là “đồ rởm”,
xưa nay không được giới học thuật coi trọng. Sở dĩ như vậy trước hết là do những
kẻ làm sách giả đã tùy tiện thêm bớt rất nhiều, đã thế lại dám rêu rao là
“chân”, là “cổ”. Loại văn bản này ra đời muộn, đến nay chỉ
khoảng bảy tám chục năm, từng có thời gian lưu truyền rộng rãi, cho đến nay vẫn
chưa phải đã hết ảnh hưởng.
* Hai là vấn đề “tác giả ” Tác
giả là ai ? Vấn đề này đã làm đau đầu nhiều nhà nghiên cứu. Bản từ thoại khắc
in ở thời Vạn Lịch nhà Minh ghi là tác. rõ ràng là một bút danh có nghĩa là
“chàng cười”, “chàng hay đùa” (Tiếu là cười, còn sinh là tiếng
tự xưng hoặc tiếng gọi người tre?
tuổi). Bài Tựa đầu sách từ thoại kí tên
Hân Hân Tử, đặt trước tên tác giả một địa danh là Lan Lăng. Lan Lăng là một ấp
của nước Sở thời Chiến Quốc, thời Hán đặt thành huyện, thời Tấn kiêm cả quận,
thời Tùy bỏ cả quận lẫn huyện, thuộc địa phận huyện Dịch tỉnh Sơn Đông ngày
nay. Thời Đường lại đặt huyện, thời Nguyên bỏ. Ngoài ra, thời Tấn có lần gửi
huyện Lan Lăng ở huyện Vũ Tiến tỉnh Giang Tô, và đặt thành quận Nam Lan Lăng, đến
thời Tùy cũng bỏ. Nhiều người nghĩ rằng Hân Hân Tử, (nghĩa rộng là “ông
vui vui”) cũng chỉ là một biến dạng của mà thôi. Ngoài ra, tác phẩm của Tiếu
Tiếu Sinh chỉ thấy có một bài từ Ngư du xuân thủy bảo tồn được trong tập tranh
đời Minh là Hoa doanh cẩm trận (nghĩa là “trại hoa trận gấm”).
Từng có người đoán là Triệu Nam Trinh
(1551-1627) hoặc Tiết Ứng Kỳ (khoảng 1550- ?) nhưng đều không đưa ra được chứng
cứ trực tiếp.
Giáo sư Chu Tinh sau mấy chục năm chuyên
nghiên cứu ở khoa Trung văn trường Đại học sư phạm Thiên Tân, trong cuốn khảo
chứng của mình xuất bản tháng 10-1980 cho rằng tác giả Kim Bình Mai là Vương Thế
Trinh(1526-1590) đỗ Tiến sĩ dưới triều Gia Tĩnh, làm quan đến Hình bộ Thượng
thư, tác giả của Gia Tĩnh dĩ lai thủ phụ truyện, Yêm Châu sơn nhân tứ bộ cảo, Độc
thư hậu, Vương thị thư uyển, Hoa uyển… Thật ra từ cuối thời Minh đã có người
cho rằng được Vương Thế Trinh viết ra để trả thù cho bố.
Ngụy Tử Vân trong đích vấn thế dữ diễn
biến (Nxb Đài Loan thời báo, 1981) cho rằng ngôn ngữ Sơn Đông ở trong truyện thật
ra là thứ ngôn ngữ lưu hành ở các tỉnh phía Bắc, đồng thời chỉ rõ từ Đông Tấn về
sau Giang Nam cũng có Lan Lăng, từ đó phủ đinh lập luận nói rằng tác giả phải
là người Sơn Đông. Căn cứ vào tập quán sinh hoạt của nhà Tây Môn Khánh miêu tả
trong truyện, Ngụy Tư?
Vân cho rằng phải là một người Giang Nam
đã sống lâu trên đất Bắc.
Năm 1981, giáo sư Từ Sóc Phương trường Đại
học Hàng Châu đăng bài nói rằng tác giả Kim Bình Mai là Lí Khai Tiên
(1501-1568).
Đầu năm 1984, tân chứng của Trương Viễn
Phần được Tề Lỗ thư xã xuất bản, trong đó tác giả khẳng định rằng Lan Lăng Tiếu.
Tiếu Sinh chính là Giả Tam Cận, nhà văn huyện Dịch thời Minh.
Thật ra ý kiến này đã được Trương Viễn
Phần đề cập trong một bài đăng tạp chí Bão độc năm 1981.
Phúc Đán học báo tháng 7-1984 đăng bài của
Lý Thời Nhân “Thuyết Giả Tam Cận viết Kim Bình Mai không thể đứng được”
kèm theo phụ đề “Chúng ta nên chú ý thái độ và phương pháp khảo chứng”,
đồng thời công bố liền hai bài ” tác giả Đồ Long khảo” và ” tác
giả Đồ Long khảo tục” của Hoàng Lâm. Đi theo hướng tìm kiếm của Ngụy Tử
Vân, Hoàng Lâm đã phát hiện được Đồ Long, một người nguyên quán ở huyện Ngân tỉnh
Triết Giang từng làm quan ở Bắc Kinh, từng ký tên là Tiếu Tiếu tiên sinh ở hai
cuốn sách đời Minh là Sơn trung nhất tịch thoại (Một buổi chuyện trò trong núi)
và Biến địa kim (Vàng khắp nơi). Đồ Long (1542-1605) tự là Trường Khanh, lại có
một tự nữa là Vĩ Chân, hiệu là Xích Thủy, đỗ Tiến sĩ dưới thời Vạn Lịch, từng
làm tri huyện Thanh Phố, tri huyện Dĩnh Thượng, và Chủ sự bô.
Lễ. Khảo trong từ thoại hồi thứ 48 có việc
Hoàng Mỹ ở phủ Khai Phong gửi thư cho Tuần án sử Sơn Đông là Tăng Hiếu Tự, gọi
Tăng mỗ đang giữ chức Tuần án Ngự sử Đô sát viện bằng chức danh “Đại trụ sử”,
chức danh này trước chưa từng nghe nói, người đọc cũng thường không để ý. Tra
trong Cô?
kim quan chế diên cách do Đồ Long soạn
thì dưới phần khảo chứng của mục Đô sát viện có tìm thấy câu “Tại Chu vi
Trụ hạ sử, Lão Đam thường vi chi” (Thời Chu là Trụ hạ Sử, Lão Đam từng làm
chức ấy) v.v., chứng tỏ cách xưng hô hiếm hoi ấy trong truyện quả có khả năng
chính là do Đồ Long viết. Ngụy Tử Vân khảo sát kinh lịch của Đồ Long thấy rằng
rất có khả năng Đồ Long viết sách ấy để phúng dụ hoàng đế lúc bấy giờ. Có hai
lí do:
một là Đồ Long từ năm Vạn Lịch 12 bị
cách chức về sau không ngóc đầu lên được nữa, khốn nghèo cho đến chết, hoàn
toàn là vì trong khi làm tri huyện Thanh Phố một lần dâng thư mừng sinh nhật
Hoàng trưởng tử, đã phạm phải điều cấm kỵ của Hoàng đế, hẳn vì thế mà có lòng
oán hận ; hai là Đồ Long từ sau khi bị cách chức, thường được người bạn là Lưu
Thủ Hữu ở Ma Thành tiếp tế, đến sau khi chết năm Vạn Lịch 33, người đời lại
truyền rằng con Thủ Hữu là Lưu Thừa Hỉ có đủ trọn bộ sách này. Đối chiếu những
điều nói trên, dường như Đồ Long viết là điều có thể tin được.
Năm 1985, nguyên mạo thám sách (Tìm kiếm
diện mạo ban đầu của ) của Ngụy Tử Vân được Học sinh thư cục Đài Loan xuất bản,
ông Đồng Văn đề tựa có nhắc lại bài viết Bình Mai dữ Vương Thế Trinh của Ngô
Hàm cũng từng đề cập tới một “Đồ Xích Thủy nổi tiếng về tạp kịch và văn chương”,
mà Xích Thủy chính là hiệu của Đồ Long. Ông Đồng Văn lấy đó để khẳng định thêm
khả năng thừa nhận Đồ Long là tác giả.
Dĩ nhiên đối với một “câu đố”
đặt ra đã bốn thế kỉ nay và trong thời gian đó đã lần lượt ra đời hơn chục đáp
án khác nhau để rồi lần lượt bị bác bỏ thì chưa thể khẳng định ngay Đồ Long là
đáp án chính xác.
Tuy nhiên, chí ít thì đáp án này cũng đã
đứng được ngót mười lăm năm nay. Những ai quan tâm đến văn học Trung Quốc nói
chung và nói riêng hẳn là hứng thú theo dõi.