Nhân Sinh Quan & Thơ Văn Trung Hoa
EPUB
Tác giả: Lâm Ngữ Đường
Thể loại: Trung Hoa
Đọc online
Giới thiệu
Lâm Ngữ Đường (Lin
Yutang), chính danh là Ngọc Đường, cùng với Hồ Thích được Âu Mỹ biết tên nhất.
Cả hai đều giới thiệu cổ học và văn minh Trung Hoa với phương Tây, Hồ sâu sắc
hơn, Lâm tài hoa hơn.
Ông sanh năm 1895, ở
Phúc Kiến trong một gia đình rất mộ đạo, cha làm mục sư. Hồi nhỏ ông hấp thụ
giáo dục của Giáo hội, sống cơ hồ như cách biệt với các trẻ em khác, không được
vô hí viện Trung Hoa, không được nghe hát Trung Hoa, không biết chút gì về lịch
sử, truyền thuyết Trung Hoa mà thuộc làu làu đời của Nữ Thánh Marie, Chúa Ki
Tô, Abraham, David…, điều đó sau lớn lên ông lấy làm xấu hổ:
“Chưa tới mười sáu
tuổi tôi đã biết rằng các kèn đồng của Josué đã làm sụp đổ tường ở Jéricho,
nhưng tới hồi tôi ba mươi tuổi mà vẫn chưa biết truyện nàng Mạnh Khương: chồng
nàng chết vì xây Vạn Lí Trường Thành, nàng lặn lội tới nơi, tìm được hài cốt của
chồng, khóc nức nở tới nỗi nước mắt làm trôi một khúc thành vĩ đại đó. Những
người Trung Hoa dù vô học cũng không dốt sử như tôi hồi đó”.
Khi ông vô trường
Nhà Dòng thì lần lần ông quên hết ít đoạn trong Tứ Thư thân phụ đã dạy cho mà
theo một nền giáo dục hoàn toàn vong bản.
Năm 1916, ông xuất
thân trường St John ở Thượng Hải, dạy Anh văn ở trường Đại học Thanh Hoa được
ba năm rồi qua Mỹ học trường Harvard về khoa ngôn ngữ, lại qua Đức học triết ở
trường Đại học Leipzig. Năm 1923 ông về nước dạy học ở Bắc Kinh, Hạ Môn. Năm
1927 làm việc ở bộ ngoại giao. Nhưng rồi, tự xét mình không thể là hạng “thực
nhục”[1] được, mặc dầu
rất thích món thịt bò áp chảo, nên bỏ chính trị mà xoay qua làm một học giả,
nghiên cứu ngôn ngữ ở Trung ương Nghiên cứu viện.
Từ hồi trở về nước
ông mới thấy sở học của mình thiếu sót quá, văn minh phương Tây thì rành rọt mà
văn minh phương Đông thì mù tịt, ông phát phẫn, cần cù tìm hiểu cổ học của dân
tộc ông. Và điều ông cho là rủi lại chính là điều may: ba mươi tuổi ông nghiên
cứu cựu học với một tinh thần mới mẻ và với những hứng thú của một thanh niên
phương Tây, khám phá được nhiều cái kì diệu của phương Đông nhờ không theo con
đường mòn của phái cựu học mà lan man đọc các tác phẩm của các triết gia, văn
sĩ bị phe chính thống chê là nhảm nhí, không hợp đạo thánh hiền.
Vốn có tinh thần tự
do, độc lập, ngay từ thời thiếu niên – tuổi đó thường là mộ đạo nhất – ông đã bất
mãn về một số tín điều của giáo hội, nhất là về tư cách, tinh thần cố chấp của
một số mục sư, nhưng vẫn còn là một tín đồ nhiệt tâm, chỉ lâu lâu âm thầm đau
khổ vì những mâu thuẫn trong lòng thôi. Sau cùng, một hôm ông được cứu thoát,
tôi chưa rõ vào hồi nào, có lẽ là trước ba mươi tuổi. Lần đó ông biện luận với
một bạn đồng sự, bảo: -Nhưng nếu không có Thượng Đế thì còn ai làm điều thiện nữa
và thế giới sẽ điên đảo mất.
Ông bạn đó theo Khổng
giáo, đáp: -Tại sao lại như vậy? Chúng ta phải sống một đời sống hợp đạo chỉ vì
chúng ta là những con người hiểu đạo, thế thôi.
Nghe lời giảng đó về
sự tôn nghiêm của đời sống con người, ông cắt hết mọi liên lạc với đạo Ki Tô.
Nhưng không phải vì
vậy mà ông thành một môn đồ của Khổng Mạnh. Ông thấy tôn giáo nào có gì hợp với
ông thì theo. Vì trọng chủ nghĩa cá nhân, ông cho đạo Khổng là gò bó quá, nhưng
vẫn quí đạo Trung dung và tinh thần gia đình của Khổng giáo; ông thích tinh thần
khoáng đạt, chủ trương trở về thiên nhiên của Lão, nhưng không trốn đời, không
triệt để hoài nghi. Có thể nói ông dung hòa được Khổng và Lão, như Đào Uyên
Minh, Tô Đông Pha, hai thi hào ông trọng nhất. Ông gần Đào ở điểm không thích
làm quan, và gần Tô ở giọng trào phúng dí dỏm.
Về văn chương, vì
trọng tự do tự nhiên nên ông theo phái Tính linh do ba anh em Viên Tôn Đạo,
Viên Hoằng Đạo, Viên Trung Đạo đời Minh thành lập ở cuối thế kỉ XVI.
Phái này chủ trương
khi viết cứ diễn đúng tình cảm tư tưởng của mình – tức tính tình tâm linh của
mình – không được giấu giếm cái xấu, khoe khoang cái tốt, không sợ người khác
chê cười mà cũng không sợ trái với lời thánh hiền thời xưa. Văn xuôi phải tự
do, uyển chuyển, nhẹ nhàng lướt tới, không bị qui tắc gò bó, không được giản ước,
cô đọng, chải chuốt, cũng không được tổ chức chặt chẽ nữa, mà phải như “hành
vân lưu thủy” (văn của Tô Đông Pha), hơn nữa phải có cái giọng thân mật như
trong cuộc đàm thoại thanh nhã.
Vì vậy chẳng những
ông ghét thể biền ngẫu, mà còn chê cả cổ văn, như chê bài Ngũ
liễu tiên sinh truyện của Đào Uyên Minh là nhạt nhẽo.
Nhờ có ba điều kiện
kể trên: một kiến thức quảng bác quán thông đông tây; một tinh thần tự do,
khoáng đạt, không xu thời cũng không tôn sùng riêng một thánh nhân nào, can đảm
phát biểu quan niệm của mình; một bút pháp tự nhiên, thân mật, thành thực, lưu
loát mà dí dỏm, nên Lâm Ngữ Đường nổi danh ngay từ hồi mới cầm bút, tự gây cho
mình một địa vị đặc biệt trong văn học Trung Quốc hiện đại, nổi danh khắp thế
giới.
Tới nay ông đã viết
được năm sáu chục cuốn: tiểu thuyết, tùy bút, tiểu sử, cảo luận, phê bình văn học,
triết học, dịch danh tác Trung Hoa ra Anh ngữ, dịch danh tác Âu Mỹ ra Hoa ngữ;
hai cuốn được người phương Tây thưởng thức nhất là The
importance of living và My country and my people.
Cả hai đều có bản Hoa dịch và Pháp dịch.
Mấy năm trước tôi
đã lược dịch cuốn trên, nhan đề là Một quan niệm về Sống đẹp;
cuốn dưới dày quá, nay tôi chỉ lựa ít chương về tôn giáo và văn học Trung Hoa để
giới thiệu với độc giả, và gom lại dưới nhan đề: Nhân sinh
quan và Thơ văn Trung Hoa. Vì nguyên tác viết từ 36, nên tôi đã lược dịch
thêm một diễn văn của Lâm đọc năm 1961 ở Mỹ, để bổ túc phần Văn học.
Tác giả không có ý
đào sâu vấn đề, mà chỉ nhắm mục đích giới thiệu văn minh Trung Hoa với người
phương Tây; ý tưởng của ông đôi khi đột ngột quá làm cho chúng ta mỉm cười,
nhưng đọc rồi, ai cũng phải nhận rằng tác phẩm vừa vui vừa bổ ích; nó rất thích
hợp với những người chỉ cần có một kiến thức phổ thông về Trung Hoa; mà đối với
những vị đã biết ít nhiều về cựu học thì nó là một cửa sổ mở thêm cho mình thấy
một vài khía cạnh mới mẻ để có dịp kiểm điểm lại những nhận xét của mình.
Chúng tôi rất tiếc
không có nguyên văn bằng tiếng Anh, đành phải dùng bản Hoa dịch của nhà Chí Văn
(Đài Bắc) và Pháp dịch (Paris). Có nhiều đoạn hai bản dịch khác nhau quá, không
biết bản nào đúng, chúng tôi đành phải châm chước.
Lâm Ngữ Đường bắt đầu
trứ tác từ năm 1924, nhưng năm 1936, sau khi xuất bản cuốn My
country and my people, ông qua ở luôn bên Mỹ và không viết bằng Hoa văn
nữa. Tôi đã giới thiệu sự nghiệp của ông bằng Hoa văn đó trong bộ Văn học Trung Quốc hiện đại 1898-1960, cuốn Thượng, phần
III, chương I, Phe độc lập, nên ở đây không nhắc lại.
Sàigòn ngày 16-7-1970
Nguyễn Hiến Lê.