Bài Học Israel
EPUB
Tác giả: Nguyễn Hiến Lê
Thể loại: Nghiên Cứu
Đọc online
Giới thiệu
Một sinh viên Việt Nam học ở ngoại quốc viết thư
cho tôi, bảo: “Người mình hồi trẻ học tinh thần của Do Thái, hồi già nên học
tinh thần của Ấn Độ”.
Phải lắm. Về già nên có tinh thần Ấn Độ, tức tinh
thần Phật giáo. Tôi thích tinh thần Lão giáo hơn. Khó tưởng tượng được Đức
Thích Ca mà đặt một em bé trên đùi rồi vuốt ve mái tóc tơ, cặp má mịn của nó:
còn Lão Tử thì rất có thể xốc nách một em tung tung nó lên cho nó cười sằng sặc,
hoặc nắm tay nó mà giung giăng giung giẻ dưới bóng hoàng lan quanh một bãi cỏ.
Nhưng Phật hay Lão thì cũng vậy.
Còn tuổi trẻ thì nên học tinh thần Israël, chứ
không phải tinh thần Âu Mĩ, cũng không phải tinh thần Nhật Bản. Nhật Bản bắt đầu
canh tân cách đây đã một thế kỷ nên tôi không biết hiện tình nước ta ở vào cái
giai đoạn đã qua nào của họ, nhưng chắc là họ bỏ xa ta ít nhất sáu chục năm mà
tinh thần của họ lúc này chẳng khác tinh thần Âu, Mĩ là mấy, sản xuất cho mạnh
để vượt Pháp, Anh, đuổi kịp Mĩ, Canada. Bấy nhiêu cũng đáng quý đấy, nhưng chưa
đủ và không hợp với hiện tình của ta, cho nên học Israël có lợi hơn là học Nhật
Bản.
Tôi dùng tiếng học ở đây theo cái nghĩa của Khổng
Tử: trạch kỳ
thiện giả, kỳ bất thiện giả. Vì Israël không phải luôn luôn
làm cho thế giới cảm phục. Tôi không ưa những trang sử năm 1956 của họ. Đành rằng
Ai Cập vẫn thường khiêu khích Israël, coi họ là kẻ thù, nhưng lúc đó Ai Cập chỉ
lo hất chân Anh, Pháp ra khỏi kênh Suez mà Israël tự nguyện làm tay sai cho Anh
Pháp, ngấm ngầm âm mưu với Anh Pháp để thừa lúc bất ngờ, ồ ạt tấn công Ai Cập
thì cái chiến thắng họ càng rực rỡ bao nhiêu, thế giới càng ghét họ bấy nhiêu.
Nhưng lỗi của họ một phần thì lỗi của thực dân Anh Pháp tới ba.
Đó là một trong vài cái “bất thiện” của họ. Còn
nhũng cái thiện của họ thì khá nhiều mà trong cuốn sách này tôi sẽ ráng trình
bày với độc giả.
Họ có những tấm gương mạo hiểm, chiến đấu, kiên
nhẫn, hy sinh cho ta noi: có nhiều kinh nghiệm về việc định cư, việc khuếch
trương giáo dục, canh nông, về cách tổ chức các cộng đồng đáng cho ta học.
Nhưng đáng quí hơn hết là họ gián tiếp vạch cho
ta thấy cái hại của thực dân và chứng tỏ cho ta tin rằng chỉ trên nửa triệu người
cũng có thể thắng thực dân được. Họ bị cả thế giới coi là một bọn mất gốc, lang
thang, ti tiện, vậy mà khi Herzl hô hào người Do Thái phải tự cứu lấy mình, thì
họ đã biết tự cứu lấy họ.
Thực dân nào, bất kỳ Đông hay Tây, cũng chỉ cốt
nhắm quyền lợi của họ trước hết: còn có lợi cho họ thì họ giúp, hết lợi thì họ
bỏ và đàn áp. Do Thái bị Anh bỏ rồi Nga bỏ, Ai Cập bị Mĩ bỏ rồi Nga bỏ; cả bán
đảo Ả Rập là nơi họ tranh giành ảnh hưởng với nhau. Nhưng trên nửa triệu dân Do
Thái đã quyết tâm phục hồi quốc gia thì thực dân Anh cũng phải chịu thua mà Nga
cũng không dám ăn hiếp họ. Họ tự coi họ là một dân tộc thì thực dân đành phải
nhận họ là một dân tộc.
Càng đọc lịch sử thế giới tôi càng thấy đi theo
thực dân thì luôn luôn lợi bất cập hại. Phải là một dân tộc có thực lực, có bản
lãnh cao, có tài chống đỡ giỏi thì mới có thể khỏi bị họ lợi dụng nhưng nếu lỡ
mà gắn bó với họ thì không sớm thì muộn, thế nào cũng khốn đốn, điêu tàn với họ.
Còn các nước nhược tiểu thì chỉ được đem thân ra làm quân tốt thí cho họ trên
bàn cờ quốc tế. Có lẽ chính Israël cũng hiểu như vậy nên năm 1967 họ đòi trực
tiếp thương thuyết với khối Ả Rập, không muốn Nga, Mĩ làm trung gian. Nội một
điều này cũng đủ cho chúng ta suy nghĩ.
Từ sau thế chiến thứ nhì đến nay, cường quốc nào
cũng đua nhau chế tạo võ khí cho thật tinh xảo, có sức mạnh tàn phá mỗi ngày một
khủng khiếp.
Năm nào cũng có những phát minh mới, thành thử vũ
khí nào tối tân nhất cũng chỉ ít năm hoá ra cổ lỗ. Vậy thì hàng núi vũ khí cũ họ
dùng vào đâu? Họ có liệng xuống biển không, có phá huỷ không, hay phải tìm cách
“tiêu thụ”, mà tiêu thụ ở đâu, có ở trên đất họ không?
Cho nên cứ lâu lâu trên báo, ta được đọc những lời
tuyên bố thực lạ lùng, hoặc nhiều nước lo hoà bình mà vãn hồi ở một nước khác
thì kinh tế nước minh sẽ nguy, hoặc nuôi một người lính còn đỡ tốn hơn nuôi một
người thợ thất nghiệp, hoặc nước nọ lâm chiến mà không muốn cho tướng của mình
thắng trận, cung cấp cho Đồng minh của mình toàn những khí giới cổ lỗ, đành rằng
thân phận bi đát của các nước nhược tiểu chúng ta có khi do tình thế bắt buộc,
không thể không đứng vào phe nảy hay phe khác, nhưng lắm lúc ta tự hỏi giá non
một phần tư thế kỷ nay, dân tộc ta không bị lôi kéo vào phe nào cả, tự lực trồng
lúa lấy mà ăn, dệt vải lấy mà bận, can đảm sống lối sống riêng của mình, hoà
thuận nhau, bao dung nhau, không ai giàu quá, không ai nghèo quá, chẳng cần ti
vi, máy lạnh, những phim cao bồi, những nhạc bi bốp… thì lúc này đây, trên những
đồng quê mơn mởn của chúng ta, tất vang lên tiếng hò, tiếng hát, chứ đâu có tan
tành, hoang tàn, thấm đầy máu, vùi đầy xương như vầy!
Độc giả sẽ trách tôi là không tưởng. Tôi không
dám cãi, nhưng dân Do Thái đã cho tôi thấy vài cái không tưởng trở thành hiện
thực, chỉ nhờ họ biết đoàn kết với nhau, hiểu rằng không thể tin gì ở thực dân.
Ai cũng biết rằng đoàn kết thì việc gì cũng thành, thì thực dân nào cũng phải
ngán. Vậy thì sỡ dĩ chúng ta cho là “không tưởng” chỉ vì không biết đoàn kết
chăng? Chính sự đoàn kết là “không tưởng” chăng?
Tôi lại nghiệm thấy có lãnh tụ tài ba, đức hạnh
thì dân tộc nào cũng biết đoàn kết, thiếu lãnh tụ tài ta, đức hạnh thì dân tộc
nào cũng tan rã. Trần Hưng Đạo cầm quân thì toàn quân như một, ai cũng căm sự
tàn bạo của quân Nguyên; Lê Lợi dấy binh thì toàn dân như một, ai cũng hận thói
thâm hiểm của triều Minh. Tôi muốn trình với độc giả bài học của Do Thái mà vô
tình trở về bài học của tổ tiên. Điều đó làm cho tôi phấn khởi.
Vậy rốt cuộc chỉ vì chúng ta thiếu lãnh tụ, mà vị
nào làm cho toàn dân hiểu được cái thảm hoạ của thực dân (bất kỳ thực dân nào)
rồi đồng lòng tự lực sống đời sống của mình, không nhờ vả ai, dù phải gian lao
chịu đựng hàng chục năm, vị đó sẽ được làm lãnh tụ dân tộc. Tôi cầu nguyện cho
vị đó xuất hiện. Chỉ lúc đó, dân tộc ta mới có một tương lai sáng sủa vẻ vang,
còn theo gót người thì không sao ngửng đầu lên được.
Sài gòn ngày 10-6-1968